Lặng lẽ những bước chân

20–30 phút

Tặng Anh, Sài Gòn 07/04/2015.

Đây là câu chuyện tôi viết dành tặng cho những con người đã và đang sống, lặng lẽ nhưng đầy can đảm. Họ đã can đảm lựa chọn con đường khó khăn vất vả, họ đã can đảm chọn cho mình một cuộc sống nhiều chông gai và họ đã can đảm sống thật đẹp.

CHƯƠNG 1: NHỮNG PHÍM ĐÀN

Sài Gòn chào đón ba và tôi bằng một cơn mưa nhẹ. Tôi thường nghe ba kể về thời tiết Sài Gòn đỏng đảnh, về những góc phố, ngõ nhỏ nồng ấm, thân tình. Nhưng trong tôi, tất cả hoài niệm về Sài Gòn đều được khắc ghi lại trong những ca từ da diết của Trịnh Công Sơn mà ba thường hay đàn cho tôi hát “Em còn nhớ hay em đã quên? Nhớ Sài Gòn những chiều lộng gió, lá hát như mưa suốt con đường đi….” Lần cuối cùng tôi đến Sài Gòn là vào kì nghỉ hè của tám năm về trước, khi đó, con nhóc mười tuổi như tôi nhớ mẹ vô cùng, tôi khóc lóc đòi ba đưa tôi về sống với mẹ. Hè năm ấy, cũng dưới hàng cây sao dầu này, bước chân ba thật chậm, ba nắm tay tôi dặn dò nhiều điều, đầy yêu thương và che chở. Năm ấy, ba tôi nhấn chuông cửa ngôi nhà màu trắng, đặt tay tôi vào bàn tay mềm mại của mẹ rồi quay lưng bước đi. Tôi nhìn theo bóng lưng cô tịch, liêu xiêu của ba rồi khóc thét lên:

-Ba, ba ơi, ba đừng đi mà, bé nhớ ba lắm.

Ba tôi quay lại, ôm tôi vào lòng, hình như đôi mắt của ba lấp lánh:

-Châu Giang ngoan, đừng khóc nhen con. Con ở lại với mẹ, mẹ nhớ con lắm. Mẹ đưa con đi mua thật nhiều búp bê, thật nhiều váy đẹp nhé. Ba về rồi ba lại đến thăm con mà.

Sau lưng mẹ tôi, anh hai cũng òa khóc, chạy ra ôm lấy ba và tôi:

-Ba ơi, ba ở lại với con đi, ba ở lại với con đi, con thèm ba lắm. Con không muốn gọi chú Sơn là ba đâu, con thèm ba Phú của con thôi.

Cuối cùng mẹ tôi kết thúc màn chia tay đầy xót xa ấy bằng việc nắm tay hai anh em tôi dắt vào nhà, bỏ lại sau lưng cánh cổng dần khép lại. Lúc ấy tôi còn quá nhỏ để có thể hiểu được nỗi buồn vương trên khóe mắt ba, tôi chỉ biết, nắng chiều phủ lên bước chân ba tôi, hiu hắt, quạnh quẽ. Tôi bỡ ngỡ với ngôi nhà ba tầng sang trọng, với những món ăn cầu kì và lúng túng trong bộ váy công chúa bồng bềnh, lúc ấy tôi sợ làm bẩn nó sẽ không có đủ nước để giặt. Tôi quên mất rằng, tôi đang ở với mẹ giữa Sài Gòn hoa lệ chứ không còn sống cùng ba trong căn nhà nhỏ ở giữa trùng khơi nữa. Tôi của năm mười tuổi lạc lõng ngay cả khi được mẹ ôm vào lòng. Nhưng đổi lại, tôi có anh hai, anh em tôi rất quấn nhau, sau hai năm không gặp, giờ càng gắn bó hơn. Tôi kể cho anh nghe về đảo Phú Quý, nơi ba và tôi sống hai năm qua. Về những con ốc biển nhiều màu, về cái nắng mang theo vị mặn. Lúc ấy, đứa trẻ mười tuổi như tôi chỉ nhớ về những điều vui vẻ nhất mà quên đi những thiếu thốn, khó khăn hằng ngày mà ba con tôi phải trải qua. Anh hai tôi tỏ ra rất hứng thú và tò mò về nơi ấy, tôi biết anh cũng nhớ ba và mong được sống cùng ba như tôi vậy. Một tuần trôi qua, mẹ tôi đưa anh hai quay trở lại với guồng quay hàng ngày, học, học và học. Còn mình tôi loanh quanh với mấy con búp bê và những tầng lầu. Tôi bắt đầu nhớ ba và khóc thầm mỗi đêm, tôi muốn quay về tung tăng bên bờ biển, được ba cõng trên vai, đi ngắm sao trời. Cuối cùng, vào một ngày mẹ quyết định cho tôi đi học piano, khi ấy tôi chợt nhận ra, tôi không thuộc về nơi này. Tối đó, khi tôi khóc trộm trên ban công thì anh hai đến, tôi nức nở:

-Em muốn về nhà, em nhớ ba.

– Anh đi với em, anh em mình về với ba, anh cũng ghét học piano lắm. Anh cũng muốn được ba cõng đi ngắm sao trời.

Dựa theo trí nhớ của tôi, sự thông minh nhanh nhạy của anh hai cùng với con heo đất anh hai nuôi từ nhỏ, hai anh em tôi đã quyết định tìm đường về nhà. Lúc chú Nam – bộ đội trên đảo – dắt hai anh em tôi về trao cho ba, tôi không thể diễn tả được ánh mắt ba lúc ấy, vừa hốt hoảng, vừa mừng rỡ, lo lắng, giận dữ…, dường như mọi cung bậc cảm xúc đều hiện hữu trong ánh mắt ấy. Ba run lên từng hồi khi nghe chú Nam kể lại việc gặp hai anh em tôi ở bến xe miền Đông như thế nào, rồi đưa chúng tôi đến đảo ra sao. Ba ôm hai anh em tôi vào lòng, giọng lạc cả đi:

-Nếu không gặp chú Nam thì ba biết làm sao, lạc mất hai con rồi ba phải sống thế nào?

Những ngày sau đó trên đảo có lẽ là những ngày vui vẻ nhất trong tuổi thơ của hai anh em tôi. Rồi mẹ tôi xuất hiện cùng với chú Sơn – người đàn ông mà anh hai không muốn gọi bằng bố. Lần thứ hai tôi kiên quyết theo ba không chịu trở về thành phố với mẹ. Cũng như hai năm trước ở tòa án, tôi trả lời mẹ:

-Con không muốn ngày nào cũng học piano, không muốn ngày nào cũng phải đến trường. Con thích ở với ba cơ.

Lúc đó, ánh mắt mẹ nhìn tôi đầy thất vọng. Cả đời này tôi không bao giờ quên được ánh mắt đó, giống như mẹ không tin rằng tôi là con do chính mẹ sinh ra vậy. Nỗi đau và sự tổn thương ngày đó theo tôi tới tận lúc trưởng thành. Đó là lần cuối cùng tôi gặp mẹ cho đến bây giờ, tôi trở thành cô thiếu nữ 18 tuổi, một lần nữa, lại trở về thành phố này, nơi tôi chôn nhau cắt rốn, để bước vào chặn đường mới đánh dấu sự trưởng thành: Tôi vào đại học.

Bất chấp mọi sự thuyết phục của anh hai, mẹ và ba, tôi kiên quyết chọn ở trọ mà không về sống cùng mẹ. Biết không thay đổi được cái tính bướng bỉnh của tôi, ba chỉ nói:

-Mẹ là người thương con nhất Châu Giang à, con đừng lạnh lùng với mẹ nữa nhen con, hứa với ba, cuối tuần về nhà ăn cơm với mẹ nhé.

Tôi nhận lời ba một cách miễn cưỡng, dù trong lòng tôi biết, tôi nhớ mẹ đến thế nào. Ba cùng tôi đi dạo từng ngóc ngách của Sài Gòn, ba kể cho tôi nghe về Sài Gòn xưa cũ, Sài Gòn của những tháng ngày ba còn là cậu sinh viên Sư phạm Toán, khi ấy mẹ còn đi bên cạnh cuộc đời ba, đắm say và bình dị . Sài Gòn của ba khi ấy đẹp lắm, nó được giữ gìn nguyên vẹn trong hồi ức của một người đàn ông đã đi qua hơn nửa cuộc đời. Tôi như được trở về những năm 80 của thế kỉ trước, khi ấy có một chàng trai Sư phạm vụng trộm nắm tay cô sinh viên Nhạc viện đi dưới hàng me xanh rờn.

Tôi nhanh chóng bắt nhịp kịp với chuyển động của nơi này, làm quen với một cô bạn xinh xắn người thành phố, tìm kiếm một công việc làm thêm nhẹ nhàng ở một cửa hàng bán đồ handmade. Tôi khá hài lòng với cuộc sống mới của mình, không quá áp lực và căng thẳng như tôi từng tưởng tượng về Sài Gòn. Một tháng trôi qua với quá nhiều bận rộn đã cho tôi cái cớ để không phải về nhà thăm mẹ. Tôi nhớ mẹ, nhớ mẹ vô cùng, suốt tám năm qua tôi chỉ thấy mẹ qua những tấm ảnh anh hai gửi, một nỗi sợ mơ hồ nào đó khiên tôi kiên quyết không lên thành phố gặp mẹ thêm lần nào nữa kể từ buổi chiều hôm đó. Tôi sợ mẹ không yêu thích tôi, sợ gặp ánh mắt thất vọng đó của mẹ. Chiều thứ sáu tan trường, tôi thẫn thờ ngồi chờ ở trạm xe buýt, đấu tranh tư tưởng xem có nên đến gặp mẹ không thì một chàng trai đã dừng xe trước mặt và réo gọi tên tôi:

-Châu Giang bé nhỏ có cần xe ôm không? Cho phép anh chàng đẹp trai được làm tài xế của em nhé!

Tôi chạy ào về phía anh, ôm anh thút thít:

-Em nhớ anh hai quá, sao giờ anh mới tìm em.

-Con bé này, anh hai tưởng em quên luôn anh với mẹ rồi chứ. Sao điện thoại của em anh gọi không liên lạc được, anh lo quá trời, gọi cho ba thì ba bảo mỗi ngày đều có nói chuyện với em. Cuối cùng là sao hả bé?

-Em bị mất điện thoại nhưng em không dám nói với ba, chiều nào em cũng mượn điện thoại bạn gọi vào máy bàn ở trường cho ba, em biết giờ nào ba trực trường mà, nên ba không biết em bị mất di động.

-Sao không về nhà tìm mẹ với anh hả? Làm anh chiều nào cũng qua trường tìm em, không dám kể với ba sợ ba lo lắng. Tới giờ mới gặp em nè.

– Em xin lỗi, em sợ…

-Thôi, lên xe anh chở về nhà, mẹ lo cho em cuống cuồng lên rồi kìa. Ở nhà ngủ hai hôm với mẹ nhen em, chủ nhật anh hai chở em về lại nhà trọ sau.

Vẫn ngôi nhà ba tầng màu trắng trong con hẻm nhỏ ấy, nhưng đã được nhuộm thêm một lớp bụi thời gian, càng thêm khép kín và trang nhã hơn tám năm về trước. Mở cổng cho chúng tôi là chú Sơn, không còn cái vẻ bất cần kiểu nghệ sĩ mà tôi gặp trên đảo ngày xưa nữa, chú mang theo vẻ phong trần có thể hút hồn bất cứ cô gái nào.

-Châu Lâm về rồi hả con? – Chú sững sờ một lát rồi mừng rỡ – Châu Giang phải không con? Con lớn quá chú nhận không ra.

-Trân ơi, bé Giang, bé Giang về rồi em. – Chú vội vàng gọi mẹ tôi.

Giai điệu bài “Slipping through my fingers” đang du dương bỗng dưng ngừng lại, tôi biết mẹ đang chơi bản nhạc này, giây phút thấy mẹ tôi òa khóc nức nở mà không hiểu tại sao. Bao nhiêu nhớ nhung, bao nhiêu uất ức, bao nhiêu sợ hãi và khoảng cách suốt tám năm qua đều tan biến hết. Tôi nhận ra, tôi yêu mẹ đến nhường nào. Mẹ đưa tôi về phòng, hơn mười năm rồi kể từ ngày ba dắt tôi rời xa thành thị, mẹ vẫn giữ nguyên phòng tôi như cũ. Trên tường là những bức ảnh của tôi, lúc một tháng trần như nhộng ngậm ngón chân cái, mắt ầng ậng nước; lúc một tuổi toét miệng cười khoe bốn cái răng cửa mới nhú; khi ba tuổi; khi năm tuổi và khi tám tuổi – năm đó bố mẹ tôi ly hôn. Trong ảnh là một cô bé mím môi, đang giả bộ chăm chú đọc cuốn sách – hình như đó là cuốn “Không gia đình”- nhưng thật ra sắp khóc đến nơi rồi. Tôi vẫn còn nhớ, đó là buổi chiều cuối cùng gia đình tôi còn trọn vẹn, sáng hôm sau ba mẹ tôi sẽ ra tòa. Khi cầm máy ảnh chụp tấm hình này của tôi, chắc ba tôi chẳng thể nào ngờ con bé Châu Giang này lại khóc lóc ầm ĩ ở tòa án đòi ở với ba, là ba mà không phải mẹ. Mặc kệ cho bà ngoại tôi, mẹ tôi cùng thẩm phán giải thích thế nào về cuộc sống vất vả khi theo ba tôi về sống ở đảo, mặc kệ cho ba tôi khuyên bảo thế nào, tôi vẫn chọn ba. Đối với tôi lúc ấy không ai quan trọng bằng ba, người đàn ông luôn mỉm cười thật hiền, thắt bím cho tôi đi học mỗi sáng. Tôi hơi sợ mẹ với những buổi chiều học dương cầm chán ngắt, đến cuối tuần lại học múa ở nhà Văn hóa, nên tôi chỉ muốn ba. Tôi khóc đến sắp ngất đi, đánh vào ba thùm thụp:

-Ba không cần bé nữa phải không? Ba ghét Châu Giang rồi phải không?

Đến khi tôi tưởng như không còn có cơ hội nào ở bên ba nữa thì mẹ tôi nói:

-Châu Lâm sau này ở với tôi, còn Châu Giang anh chịu khó chăm sóc, đến khi nào con bé hết chịu nổi nữa thì anh dẫn về cho tôi. Tôi không hi vọng con gái mình sống cuộc sống thiếu thốn, chịu khổ cùng với anh.

Bàn tay mẹ nắm tay tôi khẽ siết nhẹ làm tôi giật mình, đem suy nghĩ về với hiện tại. Tôi lại lần nữa bật khóc khi thấy những bức hình năm tôi chín tuổi, mười tuổi, rồi đến mười sáu, mười bảy trên tường, những hình ảnh tôi nghịch sóng biển, tôi nói chuyện với mèo, lần đầu mặc áo dài … hiện diện khắp nơi ở đây. Hóa ra mẹ tôi vẫn luôn dõi theo tôi suốt chừng ấy năm. Tôi cứ sợ mẹ quên mất mình, quên mất cô con gái nhỏ Châu Giang này. Tôi tham lam ngắm nhìn mẹ, để bù đắp cho những tháng ngày tôi đã bỏ quên. Mẹ trẻ hơn rất nhiều so với tuổi 50, vẻ đẹp kiêu kì và sang trọng của một tiểu thư khuê các, pha lẫn nét dịu dàng mong manh của một nghệ sĩ dương cầm. Anh hai tôi thừa hưởng sống mũi cao thanh tú cùng nụ cười duyên chết người của mẹ, còn tôi, như ba nói, có vành tai bé xinh của mẹ, và cũng chỉ giống mẹ ở cái vành tai. Không biết ba yêu mẹ đến thế nào mới nhớ đến từng đường nét của cả cái vành tai như vậy hay bởi vì ba cố gắng tìm hình bóng mẹ ở nơi tôi nên tự thuyết phục mình như thế? Nhưng dù thế nào thì ba rất yêu mẹ, đến bây giờ vẫn vậy.

Tối hôm ấy hai anh em tôi kéo nhau lên sân thượng, cùng nhắc lại những chuyện ngày bé. Tuy anh hai lớn hơn tôi 2 tuổi những thường bị con bé em là tôi chọc cho khóc suốt. Anh hai tôi sợ tất cả những sinh vật bé nhỏ, gớm ghiếc như mọi đứa trẻ khác, còn tôi thì không. Tôi nghiêng đầu nhìn anh chăm chú, không biết nếu bây giờ tôi cầm trong tay một con gián rồi đưa ra trước mặt anh thì sẽ thế nào nhỉ? Một chàng trai cao 1m75 vừa la hét, vừa nhảy tưng tưng chắc thú vị lắm. Bỗng nhiên anh nói:

-Bây giờ anh không còn sợ gián nữa rồi, khỏi tưởng tượng chi hết.

-Em nghĩ gì làm sao anh biết được? – Dù chống chế như thế nhưng tôi vẫn thấy rất diệu kì, hai anh em tôi dù không trưởng thành cùng nhau nhưng luôn có một sự thấu hiểu kì lạ, tình thân là thứ tình cảm thiêng liêng nhất, nó vượt qua mọi không gian và thời gian, tồn tại vĩnh cửu.

-Anh hai, sao hồi đó em nhớ anh thích làm kĩ sư cơ mà, ba cũng ủng hộ anh theo đuổi ước mơ, mà sao giờ anh lại học bác sĩ?

-Em có nhớ buổi tối mà em buồn ngủ quá không chịu đi ngắm sao cùng anh với ba không? Hôm đó ba đã tâm sự cho anh rất rất nhiều điều.

Tôi cố gắng nhớ lại, có lẽ anh nói một buổi tối cách đây hai năm, khi anh vừa thi xong đại học đã khăn gói ra đảo ở với ba và tôi một tháng. Kì nghỉ hè ấy tôi đã ôm eo anh chạy xe đạp ngang qua nhà những thằng bạn choai choai thích tôi, cái vẻ mặt ra điều đắc ý lắm. Trên đảo này, làm gì có ai đẹp được như anh hai đâu chứ. Giọng anh đều đều:

-Em còn nhớ ông nội không? Lúc em và ba về Phú Quý thì ông đang bị bệnh rất nặng, rồi qua đời không lâu sau đó. Thật ra ông nội không phải là cha ruột của ba. Năm 1975, ông nội là quân giải phóng, nhặt được ba lúc ấy tầm mười tuổi bị trúng đạn nằm bên quốc lộ 26. Ông nội đoán ba có lẽ là con của một sĩ quan trên đường tháo chạy khỏi Buôn Mê Thuột nhưng bị lạc rồi bị trúng đạn. Lúc ấy ba hôn mê nhưng nắm chặt tay ông nội rồi luôn miệng gọi bố. Sau đó tỉnh dậy, nhất quyết đòi đi theo ông nội nhưng lúc đó ông còn phải tiến quân vào Sài Gòn nên đành gửi ba lại cho mấy soeur ở nhà thờ với lời hứa sẽ quay lại tìm ba. Sau giải phóng ông nội vất vả lắm mới tìm lại được ba vì lý do ba được gửi gắm qua nhiều người khác nhau sau đó. Nghe ba kể, lúc ông nội thấy được ba thì ba đang gặm khoai mì trong buôn người Ê-đê, thấy ông nội thì mừng quá khóc thét lên. Ba với ông nội nên duyên ba con từ khi đó. Kì lạ là ba không còn nhớ bất kì điều gì về mình, chỉ luôn miệng nhắc về cô bé nào đó với cái tên Châu Giang, sau này được đặt cho em. Ông dắt ba về quê ở tít Hà Đông, rồi mới biết cả gia đình ông gồm ba mẹ, vợ con đều đã mất trong đợt oanh tạc B52 Mĩ. Quá đau lòng, ông xin nhận nhiệm vụ ở đồn biên phòng trên đảo Phú Quý, cùng ba xây dựng cuộc sống mới. Một tay ông chăm sóc, nuôi nấng ba nên người. Bàn tay người đàn ông ngoại tứ tuần, nửa đời người cầm súng chinh chiến khắp đất trời, giờ lại nấu cơm giặt đồ, chăm sóc cho một cậu nhóc; tình cảm ấy có lẽ cả đời ba không thể nào đền đáp hết được. Ông nội xin cho ba đi học, làm khai sinh mới với tên Hoàng Đắc Phú, Đắc là lấy từ Đăklak nơi ông tìm thấy ba, Phú là từ Phú Quý, nơi hai người sinh sống. Sau đó ba lớn lên, vào Sài Gòn học Sư Phạm rồi gặp mẹ, yêu nhau và có hai đứa mình.

-Ba có kể cho anh nghe chuyện tình yêu của hai người không?

-Ba kể anh có nhiêu đó thôi, một buổi tối đâu mà kể lắm vậy.

-Hồi đó có lần ba say rượu, ba bảo em có vành tai giống mẹ, rồi ba kể nhiều lắm. Thời sinh viên ba là gia sư dạy Toán cho cậu Út, rồi sau đó say mê tiếng đàn của mẹ nhưng đành giấu kín trong lòng, không dám tỏ tình với cô tiểu thư kiêu kì. Có một hôm ba mang guitar đến dạy cậu Út học đàn, vô tình chơi bản “La Catedral” làm mẹ trúng sét, sau đó mẹ chủ động làm quen với ba. Rồi ba và mẹ yêu nhau trong bí mật, sợ bị ông bà ngoại phát hiện. Lúc ấy thật ra ba chỉ biết chơi mỗi bài “La Catedral” thôi, do ông nội hay chơi bài này nên ba mới biết. Sau đó là những ngày tháng mài mòn dây đàn để chơi được các tác phẩm của Barrios và Tárrega để chinh phục mẹ. Lúc ấy ba mười chín còn mẹ thì mới mười tám thôi á.

-Cây guitar ấy ba tặng anh hồi anh thi xong đại học, đó là kỉ vật của ông nội, ông nội tặng ba, rồi ba tặng lại cho anh.

-Anh chỉ biết chơi dương cầm thôi, tặng anh chi cây guitar phí vậy, trong khi em ước ao bao năm không được.

-Thật ra anh lén mẹ đi học guitar suốt ba năm phổ thông vì nhớ ba. Những lúc đó, anh ganh tị với em ghê gớm, được ba dạy cho từng nốt nhạc, bấm từng dây đàn.

-Anh được mẹ dạy dương cầm còn gì, cả “bố” Sơn của anh cũng dạy anh vĩ cầm nữa đó thôi, còn đi ganh tị với em cho được.- Tôi gằn giọng nhấn mạnh từ “bố” để tỏ vẻ bất mãn trước việc anh gọi người đàn ông khác không phải ba tôi là bố.

-Em đừng ghét chú Sơn, ba và mẹ ly hôn không phải do chú ấy đâu. Chắc em không biết, ngày xưa ba và mẹ yêu nhau bị ông bà ngoại phản đối dữ dội lắm vì chê ba nghèo. Sau đó vì mẹ có thai anh nên ông ngoại mới bất đắc dĩ cho cưới với điều kiện ba phải ở rể. Cảnh ở rể của ba trong ngôi nhà này muôn phần khổ cực vì bị ông bà coi như kẻ thù khi mang tội dụ dỗ con gái họ. Cuộc sống hôn nhân trở nên ngột ngạt với đủ mọi mâu thuẫn và lý do khác nhau. Lương giáo viên của ba không đủ uống ly café sáng, còn mẹ thì từ bé quen cảnh ăn sung mặc sướng, đâu chịu nổi khổ cực nên kinh tế phải phụ thuộc ông bà. Ba hi vọng mẹ có thể cùng ba trở về Phú Quý sống cuộc sống tự tại nhưng ba biết, mẹ không thể sống thiếu dương cầm. Âm nhạc là lẽ sống của mẹ, cũng như ba không thể bỏ những cô cậu học trò nhỏ được vậy. Đỉnh điểm của sự rạn nứt là khi ông bà ngoại ép ba bỏ nghề cùng sang Mĩ định cư nhưng ba không đồng ý, lúc ấy ông nội lại ốm nặng, ba muốn về quê để chăm sóc ông. Ba luôn đau đáu một tình yêu da diết với hòn đảo ấy, ngày xưa ba chọn sư phạm cũng chỉ vì nguyện vọng muốn về dạy học cho những đứa trẻ nhưng rồi tình yêu với mẹ đã níu bước chân ba ở lại thành phố này. Ba không thuộc về nơi đây, còn mẹ thì không thể rời xa phím đàn để ra đảo. Có lẽ trái tim ba và mẹ dần mệt mỏi với những mâu thuẫn, tình yêu tuổi trẻ nhạt nhòa theo sự xô đẩy của dòng đời. Ba còn nợ ông nội một lời hứa, ngày xưa ông nội vượt qua bao vất vả cố tìm được ba vì nhớ mãi lời hứa với đứa con nít xa lạ, ấy vậy mà ba đã quên lời hứa trở về với ông, quên đôi vai trĩu nặng nắng gió cuộc đời đã cõng ba đi qua những mùa giông bão. Rồi ba và mẹ ly hôn, ý định ban đầu là mẹ sẽ đưa cả hai chúng ta theo ông bà ngoại sang Mĩ nhưng rồi vì em kiên quyết đòi ở với bố nên cuối cùng mẹ chọn ở lại Sài Gòn một mình cùng anh, mẹ không thể bỏ em lại mà đi được Châu Giang à, mẹ yêu em nhiều lắm.

Tôi có thể tưởng tượng được sự dằn xé trong nội tâm của ba và mẹ trong những năm tháng đó. Tình yêu nào cũng đẹp, nhưng không phải tình yêu nào cũng tạo thành một cuộc hôn nhân hoàn mĩ. Ba và mẹ đều có lý tưởng sống của riêng mình, hoàn cảnh trưởng thành đã tạo cho mỗi người một con đường đi tới tương lai khác nhau, tiếc là đối với ba mẹ tôi nó quá xa nhau nên cuối cùng vẫn không thể đi chung đường được. Tôi đã không còn trách mẹ đã bỏ rơi ba con tôi từ lâu rồi, đối với tôi chỉ cần ba mẹ đều yêu thương tôi và tôi được sinh ra bằng tình yêu của họ là quá đủ rồi. Nếu ngày đó ba từ bỏ lời hứa của mình với quê hương mà đi xa xứ, có lẽ cả cuộc đời ông là những ray rứt khôn nguôi, không khi nào tâm hồn tĩnh lặng được; còn mẹ tôi, nếu ngày đó theo bố tôi về đảo có lẽ linh hồn bà cũng ở lại Sài Gòn cùng những phím đàn trắng muốt rồi. Giờ đây tôi mới hiểu những cảm xúc phức tạp nơi đáy mắt ba tôi ngày đó, bao nhiêu yêu thương nhưng đầy dằn xé và bất lực. Chưa lúc nào tôi thấy hạnh phúc vì sự kiên quyết của mình ở tòa như vậy. Nếu tôi theo mẹ đi xa nửa vòng Trái Đất thì ba tôi sẽ trải qua những năm tháng cô đọc một mình như thế nào. Liệu đôi mắt sâu thẳm đầy xúc cảm ấy, đôi mắt hút hồn bao nhiêu người đối diện ấy có còn linh hồn hay không? Tôi nhìn sâu vào mắt anh hai – đôi mắt kế thừa trọn vẹn từ ba, hi vọng sẽ tìm thấy ánh mắt ba khi còn tuổi trẻ, chưa ẩn chứa nét bi thương và cô tịch như bây giờ. Tôi hỏi anh hai:

-Mẹ và chú Sơn quen nhau như thế nào hả anh?

-Chú Sơn là thanh mai trúc mã của mẹ, ngôi nhà màu xanh đầu hẻm là của chú đó. Hồi đó ba mẹ chú cũng đã sang Mĩ định cư rồi, chỉ còn mỗi chú ở lại để đợi mẹ. Chú yêu mẹ nhưng mẹ yêu ba nên chú lặng lẽ đi làm việc ở những nơi khác, sau này ba mẹ li hôn rồi mới trở về, tiếp tục theo đuổi mối tình thời ngây dại. Vì yêu mẹ nên chú mới học vĩ cầm rồi thi vào nhạc viện nhưng sau đó lại bỏ học nửa chừng khi biết mẹ kiên quyết đến với ba. Rồi chú đến với nhiếp ảnh, theo học Học viện báo chí tuyên truyền ở tận Hà Nội, mài mòn gót chân hết các cung đường Tây Bắc cho tới khi nhận được tin mẹ li hôn thì trở về. Em hiểu mà phải không? Chú Sơn không có lỗi gì cả, chú yêu thương mẹ vô cùng, em đừng ghét chú nữa nhé, mẹ và chú khổ tâm lắm.

Thật ra tôi còn thấy áy náy với chú nữa kìa, nghe ba kể, lúc sinh tôi rất khó, mẹ bị băng huyết rồi để lại di chứng ở tử cung nên không sinh con được nữa. Chú yêu mẹ tôi như thế, thương anh em tôi như con ruột nhưng lại không có được đứa con của riêng mình. Trong thâm tâm tôi vô cùng ngưỡng mộ chú, hiếm có người đàn ông nào chung thủy với một mỗi tình si như thế, cuồng nhiệt mà dịu dàng, lặng lẽ nhưng lại dạt dào không lúc nào ngừng nghỉ. Cuộc đời mẹ thật ra cũng rất hạnh phúc, có được tình yêu trọn đời trọn kiếp của hai người đàn ông. Có lẽ sự lạnh nhạt của tôi là nỗi day dứt duy nhất của mẹ suốt tám năm qua. Sự khắc khoải trong cõi lòng mẹ tôi vẫn còn cảm nhận rõ qua tiếng dương cầm lúc chiều, giai điệu vẫn còn vang vọng mãi trong tôi: “I watch her go. With an absent-minded smile. I watch her go. With a surge of that well-known sadness. And I have to ….”

CHƯƠNG 2: KHUNG TRỜI LẶNG GIÓ

to be continue…

Phuong Yen Vu

Bình luận về bài viết này